Giao tiếp bao gồm 3 yếu tố: lời nói (những gì chúng ta nói), giọng điệu (cách chúng ta nói) và ngôn ngữ cơ thể (cách chúng ta hành động). Tùy thuộc vào hoàn cảnh và chủ đề đang được thảo luận, đến 93% giao tiếp của chúng ta được thực hiện thông qua ngôn ngữ cơ thể và giọng điệu, trong khi chỉ có 7% là thông qua những từ ngữ chúng ta nói. Ngôn ngữ cơ thể chiếm khoảng 55% cách chúng ta truyền đạt suy nghĩ, vì vậy cần đặc biệt lưu ý khi viết bất cứ điều gì liên quan đến nhân vật, dù đó là đối thoại hay chỉ là trạng thái chung của họ, vì nó giúp người đọc đắm mình vào câu chuyện.
Trong hướng dẫn này, tôi sẽ đề cập đến nhiều yếu tố mà có thể bạn sẽ muốn cân nhắc. Bài hướng dẫn gồm 2 phần. Phần đầu là các thông tin liên quan đến ngôn ngữ cơ thể, khi nào nên sử dụng nó, khi nào không nên và các vấn đề khác. Phần hai, tôi sẽ liệt kê các cách mà chúng ta sử dụng ngôn ngữ cơ thể và biểu cảm khuôn mặt để bạn có thể dễ dàng tham khảo. Nhưng trước khi chuyển sang phần đó, hãy nhớ rằng không phải tất cả mọi người đều sử dụng cùng một cử chỉ ngôn ngữ cơ thể, chúng ta sẽ nói thêm về điều này bên dưới.


55% giao tiếp của chúng ta diễn ra thông qua ngôn ngữ cơ thể, bên cạnh đó, còn một lý do quan trọng khác khiến bạn cần dùng ngôn ngữ cơ thể trong tác phẩm, đó là nó mang lại chiều sâu. Chiều sâu cho khung cảnh, chiều sâu cho cảm xúc đang diễn ra tại thời điểm cụ thể và chiều sâu cho các nhân vật. Một số người có thói quen lo lắng, một số người rất kém che giấu cảm xúc thật, một số thì mặt đơ, vân vân và mây mây.
Dưới đây là một vài ví dụ minh họa tầm quan trọng của ngôn ngữ cơ thể:
“Anh ta nhanh chóng chạy qua cầu.”
“Đôi mắt anh ta đảo qua đảo lại. Anh ngừng lại một chút trước khi chạy cuống qua cầu.”
“Anh ta nhắm mắt lại và hít một hơi thật sâu trước khi lao vút qua cầu.”
Trong các ví dụ trên đều có một người chạy qua cầu, nhưng ở ví dụ thứ hai và thứ ba, chúng ta cảm nhận được cảm xúc mà nhân vật có thể đang trải qua. Trong ví dụ thứ hai, có một cảm giác lo lắng điều gì đó sắp xảy ra, một cảm giác rằng có lẽ nhân vật sẽ không đến được cuối cầu hoặc không đến được đích mà không bị phát hiện. Trong ví dụ thứ ba, cũng có một cảm giác lo lắng, nhưng đó là loại lo lắng được kiểm soát hơn. Ví dụ 3 có vẻ như đang miêu tả một người cố gắng chạy đua qua cầu với tốc độ nhanh chưa từng thấy cảu mình hoặc mô tả như ai đó vượt qua điều gì đó, và cây cầu là phép ẩn dụ hay nhân cách hóa của trở ngại ấy.

Một điều nữa được thể hiển trong ba ví dụ là việc sử dụng đúng động từ chỉ hành động. Có thể bạn đã đoán hoặc biết rằng động từ chỉ hành động là những động từ biểu đạt những hành động vật lý và tinh thần. Ví dụ như: đứng, suy nghĩ, chạy, tin tưởng… Chọn đúng động từ giúp truyền tải những hành động và cảm xúc cụ thể thường gắn liền với chúng. Ba ví dụ trên đã sử dụng: chạy, chạy ào và lao vút. Chúng có nghĩa tương đương nhau, nhưng “chạy cuống” thường gắn liền với trạng thái lo lắng hơn, trong khi “lao vút” thường liên quan đến thể thao hoặc chỉ đơn giản là chạy nhanh hơn.
Nhiều động từ cũng sẽ thay đổi hoàn toàn tùy thuộc vào ngữ cảnh. Ví dụ, dụi mắt có thể là dấu hiệu của sự bực bội, kiệt sức, đau đớn về thể chất, che giấu nước mắt, thực sự có cái gì đó trong mắt và nhiều ý nghĩa khác. Một động từ có thể được hiểu theo nhiều cách hay không không phải là dấu hiệu cho thấy nó là một động từ phù hợp hay không phù hợp để sử dụng trong một tình huống cụ thể. Nếu nó truyền tải được cảm xúc của nhân vật thì thật tuyệt, nếu không thì đừng dùng nó.

Tả, không kể là điều mà nhiều nhà văn đã làm và có lý do chính đáng để họ làm như vậy. Cho người đọc thấy những gì xảy ra giúp người đọc đắm mình vào thế giới và cảm xúc của nhân vật, trong khi kể lể sẽ giữ người đọc ở khoảng cách xa. Cả hai phương pháp đều có giá trị riêng, nhưng trong hầu hết các trường hợp, tả thì tốt hơn kể. Điều tương tự cũng áp dụng cho ngôn ngữ cơ thể, có thể chính vì lý do đó.
Ví dụ:
“Nàng thở phào nhẹ nhõm và thả lỏng cơ thể, ngã xuống giường.”
“Một tiếng thở dài thoát khỏi miệng nàng khi toàn thân giãn ra và nàng thả mình xuống giường.”
Câu đầu tiên kể lại những gì xảy ra và kết quả là chúng ta cảm thấy mình như một người quan sát xa lạ. Ví dụ thứ hai cho chúng ta thấy cô ấy đang cảm thấy gì và kết quả là chúng ta dễ dàng hình dung một nhân vật buồn chán hoặc kiệt sức ngã xuống giường, đồng thời dễ dàng đồng cảm với nhân vật này. Bạn thậm chí có thể thở phào và thư giãn một cách vô thức, điều mà ví dụ đầu tiên hiếm khi đạt được, nếu có.

Hãy cẩn thận, đừng sử dụng quá nhiều chi tiết. Càng thêm nhiều chi tiết, bạn càng đi xa hơn so với mục tiêu ban đầu. Quá nhiều chi tiết sẽ khiến người đọc tập trung vào những chi tiết đó thay vì vào cảm xúc mà những chi tiết này cần truyền tải.
Trong viết lách, bạn chỉ viết những gì quan trọng cho cảnh và bỏ qua tất cả những phần không cần thiết. Hãy xem xét các ví dụ sau:
“Con ngươi của cô ấy giãn ra, đôi má cô đỏ ửng lên. Tay cô che mặt, chỉ để lộ ra quầng mắt trong khi cố gắng né tránh ánh mắt của đối phương bằng mọi giá.”
“Cô ấy đỏ mặt và lấy tay che mặt, ẩn mình sau bàn tay trong khi lảng tránh ánh mắt anh.”
Ví dụ đầu tiên có quá nhiều thông tin và hầu hết đều hoàn toàn không liên quan. Làn da đỏ ửng lên có thể chỉ là “cô ấy đỏ mặt” hoặc thậm chí là “da ửng đỏ ” (“đỏ mặt” và “ửng đỏ” tương tự nhau, nên viết cả hai là thừa), và vị trí tay che mặt không quan trọng. Nếu cần phải nhìn vào mắt trong khoảnh khắc cụ thể này, bạn có thể chỉ cần viết “cô ấy ngước lên từ sau đôi tay đang che mặt” hoặc “cô ấy liếc qua kẽ tay” thay vì lo lắng về vị trí chính xác của tay. Bằng cách này, toàn bộ khoảnh khắc sẽ có tác động lớn hơn đối với người đọc. Câu thứ hai diễn đạt mọi thứ theo cách người khác có thể dễ dàng liên tưởng. Khoảnh khắc không bị gián đoạn bởi những chi tiết vô nghĩa, cho phép chúng ta ngay lập tức chuyển sang phần tiếp theo của cảnh, và do đó chúng ta không làm gián đoạn cảm xúc của người đọc.

Một yếu tố trong ví dụ trước mà tôi cố tình bỏ qua là sự giãn nở của con ngươi trong câu đầu tiên. Con ngươi sẽ giãn ra vì nhiều lý do, nhưng chúng ta thường liên hệ chúng với sự sợ hãi hoặc ngạc nhiên. Trong ví dụ cụ thể này, nó cũng có thể là do cô ấy bị thu hút bởi người đã khiến cô đỏ mặt. Ngôn ngữ cơ thể cụ thể này, giống như nhiều ngôn ngữ cơ thể khác, không được nhiều người biết đến, vì vậy tốt nhất là không nên sử dụng nó để tránh gây nhầm lẫn. Trên một khía cạnh không liên quan lắm, con ngươi của chúng ta có xu hướng giãn ra khi chúng ta quan tâm đến điều gì đó hoặc ai đó và co lại khi chúng ta không quan tâm. Vì vậy, nếu bạn thấy con ngươi của bạn bè co lại hoặc giãn ra vào một thời điểm dường như ngẫu nhiên, bạn sẽ biết rằng điều gì đó đã thu hút sự chú ý của họ hoặc làm họ chán ngán. Bạn thậm chí có thể thử nghiệm bằng cách nói về điều gì đó họ yêu thích và sau đó nói về điều gì đó họ không thích hoặc ghét. Nếu bạn bè muốn đánh lừa bạn, họ sẽ chỉ cần nghĩ về những nơi tối tăm, những người hoặc thứ họ thấy hấp dẫn hoặc những khoảnh khắc khiến adrenaline của họ tăng cao và con ngươi của họ sẽ giãn ra.
Bạn có thể thấy rằng có rất nhiều tình huống mà con ngươi sẽ gi
ãn ra, điều này cũng xảy ra với hầu hết các ngôn ngữ cơ thể của chúng ta. Tuy nhiên, phần lớn chúng được gắn liền với một vài cảm xúc cụ thể và tốt nhất là chỉ nên sử dụng chúng cho những khoảnh khắc đó để truyền đạt những cảm xúc này. Nếu bạn không làm vậy, độc giả có thể sẽ bị nhầm lẫn.

Ngôn ngữ cơ thể là cách tuyệt vời để thể hiện thói quen của nhân vật, nhưng hãy chắc chắn rằng bạn không làm quá lố. Nhân vật của bạn có thể cắn móng tay khi họ lo lắng hoặc ưỡn ngực ra trước mỗi khi họ ở gần ai đó mà họ thấy hấp dẫn, nhưng những thói quen này không cần phải được nhắc đến mỗi lần xuất hiện. Nếu bạn lặp lại những thói quen này quá thường xuyên, chúng sẽ trở nên phiền phức đối với người đọc và có vẻ gượng ép, khiến nhân vật trở nên thiếu thực tế. Hãy nhớ rằng nhân vật có thể trở nên thiếu thực tế ngay cả khi mọi thứ họ làm đều dựa trên thực tế.
Một ví dụ khác là nụ cười. Chúng ta mỉm cười vì nhiều lý do và đây là một trong những cảm xúc thường xuất hiện khi bạn viết về những gì nhân vật đang làm. Nhưng nếu bạn viết về nụ cười quá thường xuyên, chúng có thể trông gượng ép và giả tạo ngay cả khi đó là thật. Nếu một nhân vật luôn mỉm cười (hoặc cười rất nhiều), tốt nhất hết là chỉ nhắc tới một vài lần thay vì mô tả nhân vật mỉm cười mỗi lần họ cười. Điều tương tự cũng áp dụng cho các thói quen.

Thói quen là ngoại lệ duy nhất cho quy tắc không sử dụng ngôn ngữ cơ thể chưa rõ ràng. Trên thực tế, bạn có thể tạo ra ngôn ngữ cơ thể riêng cho một nhân vật để làm nổi bật nhân vật đó, nhưng hãy cẩn thận vì điều này rất khó thực hiện thành công. Một ví dụ tuyệt vời là “L” trong “Death Note”. Mỗi khi anh ấy suy nghĩ, L thường đặt ngón cái ngay dưới môi trên, điều mà người ta thường không làm, nhưng nó nhanh chóng trở thành đặc điểm nhận dạng của L. Tất nhiên, vì điều này được thực hiện trong truyện tranh và hoạt hình nên dễ thực hiện hơn, nhưng cũng có thể áp dụng trong văn viết.
Nếu bạn muốn nhân vật của mình có một thói quen độc đáo, thường nên dựa trên ngôn ngữ cơ thể hiện có. “Ngón tay chạm môi” của L gần giống với tư thế “chống nắm tay dưới cằm” hoặc “đặt ngón tay trên môi” khi mọi người đang suy nghĩ. Tư thế của L chỉ khác biệt đủ để trở nên độc đáo và một chút kỳ quặc, phù hợp với tính cách của nhân vật này. Điều đó không có nghĩa là bạn không thể có thói quen ngôn ngữ cơ thể hoàn toàn độc đáo hoặc trái ngược với những gì chúng thường biểu đạt, nhưng nó sẽ đòi hỏi bạn phải suy nghĩ thêm và thử nghiệm để xem liệu nó có thực sự hiệu quả hay không. Ngoài ra, đừng cảm thấy rằng nhân vật (chính) của bạn nhất định phải có một thói quen độc đáo. Không nhất thiết phải như vậy. Mọi người đều có những cử chỉ riêng, nhưng hầu hết đều khá giống nhau và có lý do chính đáng. Hãy nhớ rằng, tới 55% giao tiếp của chúng ta diễn ra thông qua ngôn ngữ cơ thể. Nếu tất cả chúng ta có những cử chỉ khác nhau, chúng ta sẽ không thể giao tiếp tốt như hiện nay.

Giống như việc không nên lạm dụng các thói quen, bạn cũng không nên lạm dụng ngôn ngữ cơ thể khi viết một cảnh. Có vẻ đây là một điểm rõ ràng, nhưng tôi vẫn cần nhắc lại. Thêm quá nhiều yếu tố ngôn ngữ cơ thể có thể làm gián đoạn dòng chảy của câu chuyện. Giống như mọi thứ khác trong viết lách, chỉ viết ngôn ngữ cơ thể đủ để truyền đạt ý chính. Nên bỏ qua tất cả những điều không quan trọng hoặc có thể bỏ qua mà không thay đổi ý nghĩa của cảnh hoặc khoảnh khắc.
#dinhphuongly dịch từ Roll For Fantasy